
Đến đây chúng ta tạm gác chương Gothic với nỗi đau hiện thực của Mathias Grünewald, để tập trung vào phong trào trọng đại của Phục hưng Ý, nay lan lên phương Bắc, và lần ra sợi chỉ xuyên suốt thời kỳ này. Thế kỷ 16 là thời đại mới cho nền hội họa ở Hà Lan và Đức. Nghệ sĩ phương Bắc chịu ảnh hưởng sự đổi mới vĩ đại ở phương Nam; thời đó, nhiều họa sĩ hội tụ về nước Ý du học; thời Phục hưng liên hệ đến khoa học, triết lý và lan sang nghệ thuật rất rõ nét ở phương Bắc. Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Bắc Nam. Ở Ý, phong trào Nhân Bản phương Nam, đã làm sống lại nền văn hóa cổ điển. Trong khi ở phương Bắc, sự thay đổi đã bị chèn ép bởi mối bận tâm vì cuộc Cải cách tôn giáo, để trở về với nền tảng giá trị xưa của Giáo hội Công giáo.
Bạn đang xem: Câu Chuyện Hội Họa Bí Mật Về Bức Tranh “Thần Vệ Nữ Say, 36 Tranh Phục Hưng Ý Tưởng Trong 2023
DÜRER VÀ CHÂN DUNG Ở ĐỨC
Tourer không những là họa sĩ vĩ đại, mà còn là nhà tư tưởng bao quát suốt thời Phục hưng, các danh tác của ông đều được tôn dinh toàn cõi châu Âu (Bắc và Nam Âu). Thế kỷ 16, xuất hiện một lớp người bảo trợ mới không thuộc giới quí tộc, mà là lớp người giàu sang, họ tha thiết mua tranh khắc gỗ. Thế kỷ này còn quan tâm phong trào Nhân Bản khoa học và thị trường sách vở, lúc đó đã có nhiều cuốn được minh họa bằng tranh khắc gỗ. Tranh của Durer có cái nhìn xuyên suốt và chính xác vào nội tâm, đặc biệt là thể loại chân dung của Đức, và một bậc thầy nữa về loại này chính là Holbein.
Con người vĩ đại, hẳn là họa sĩ Đức (ở Bắc Âu), trong thời Phục hưng Albrecht Direr (1471-1528). Chúng ta biết nhiều về ông hơn các họa sĩ khác vào thời đó nhờ ông để lại thư từ của bạn bè; ông tiết lộ rằng, các cuộc du hành đã cho ông biết, người ta hâm mộ tranh ông ở nước ngoài hơn là trong nước. Ông chịu ảnh hưởng các họa sĩ Ý, đặc biệt là đường nét mang phong cách thành Viên. Nhất là bậc thầy Bellini, lúc Dürer gặp mặt, thì ông ấy đã già lão. Dürer rất ham học hỏi, ông là họa sĩ Bắc Âu duy nhất đã thấm nhuần sách vở bàn luận về các cuộc đối thoại lý thuyết khoa học áp dụng vào nghệ thuật, để viết ra luận đề tỷ lệ vào năm 1528. Dù ông để lại nhiều tài liệu, nhưng tư tưởng ông xem ra còn quá sâu sắc, khó hiểu hết được.
Ông đã tổng hợp được những quan điểm bất toàn về con người. Ông hối hả, sung sướng trong công việc. Ông kết hôn với nàng Agnes, tính nết cô ta thật khó chịu, nhưng không ai biết quan hệ của họ thực sự ra sao. Theo cách sống công khai thì ông là người kín đáo, và điều này đã khiến tác phẩm của ông thêm phần xúc cảm.

Trong thời Trung cổ, người Đức quan niệm nghệ sĩ là người thợ khéo”. Điều này Direr khó mà chấp nhận, trong bức chân dung tự họa(là bức thứ hai trong 3 bức vẽ ông chọn) với dáng dấp quí phái, trẻ trung, mái tóc loăn xoăn, nét mặt bình thản, trang phục kiểu cách hảo hạng, trông oai phong khi so với cảnh núi non hùng vĩ ngoài khung cửa ngầm tả cảnh trí cao rộng mênh mông ngoài kia. Ông tự xem mình không chỉ là dân tỉnh lẻ và ông ngầm xem người khác cũng như mình không hơn không kém.

Trong tác phẩm “Đức Mẹ mà Chúa Hài Đồng” ông đã vẽ theo lối cận cảnh, bán thân như các tiền bối ở Venice, có lẽ bậc thầy Bellini đã từng vẽ như vậy. Với Direr thì Bellini là mẫu người có tài biến mẫu mã lý tưởng thành hiện thực. Nhưng Direr không hề tin vào lý tưởng sôi sục mà đem lòng mong mỏi. Ông tả Đức Mẹ tròn trỉnh, có nét đẹp kiểu Bắc Âu, và Chúa Hài Đồng có cái mũi hỉnh và cái nọng ú na ú nần. Ông còn cho Chúa Con, tay cầm quả táo bọc ra sau, giống hệt bức tranh khắc Adam và Eva nổi tiếng trước kia. Chúa Con, trông nét mặt tựa như thở dài, dấu “trái cấm” tai họa sau lưng, khiến “Ngài” phải xuống thế chuộc tội cho nhân loại. Một bên Ngài là vách đá óng chuốt và bên kia là khung cửa kiểu cổ. Mặt Ngài nửa như thanh thản nửa như nặng nhọc, còn Đức Mẹ ánh mắt xa xôi, tỏ ra chia sẻ nỗi niềm. Bức tranh màu sắc đẹp đẽ, hình thể hấp dẫn, hai điểm này đã khiến Dürer trở thành người có tài, khiến người thưởng ngoạn thông cảm ông tận đáy lòng. Tranh ông như có “chất ám ảnh”, người ta cảm thấy nó có lực nội tại, dẫn đến chân lý trong đó. Chính nó chất chứa ý thức bên trong ngay sau sắc màu, hình thể, do đó nó tự bật sáng.

Đã từ chối nghệ thuật và triết học Gothic của Đức trong quá khứ, Direr là họa sĩ Thệ Phản (Protestant) vĩ đại, đã gọi Martin Luther rằng “Người Công giáo đó đã giúp tôi thoát bao lo buồn”. Đó là nỗi lo bí mật, đã dấu sự nhút nhất để giữ lòng tự trọng khỏi biến thành tự mãn. Dù không vì lý do gì mà họa sĩ Công giáo không được vẽ đề tài “Bốn Tông đồ” , hoặc tại sao một nghệ sĩ như vậy không được chọn vẽ hai tông đồ đầu tiên (John và Peter) kế đến là Paul và Mark, hai thánh này chỉ là học trò chưa được Chúa kể vào hàng Phúc Âm, dù họ đều giỏi thuyết giảng lễ đạo. Đây là điểm mà giáo hội Thệ Phản ghim vào. Bốn vị mang bốn cá tính: lạc quan, tỉnh táo, nóng nảy, u trầm. Dürer là người quan tâm đến y học và tâm lý, để từ đó ông tìm ra bí ẩn về con người.

Xem thêm: bài tập phép chia hết và phép chia có dư lớp 3
Họa sĩ Dürer xuất thân từ một gia đình người Hungary, cha làm thợ rèn, họ đến Nuremberg lập nghiệp từ năm 1955. Trong họa phẩm “Phụ thân Họa sĩ”, Durer tả cha ông bằng dáng vẻ đáng kính. Dùng bút pháp chì, nét sắc gọn, nó hoàn tất với độ bóng đậm đà. Tuy nhiên, cũng như nhiều bức khác, có thể tranh này chưa hoàn thành vì nền tranh còn sơ sài, khác xa so với chi tiết đã thành trong bức “Chân dung tự họa” của ông và trang phục của người mẫu mới chỉ là giai đoạn đang phác thảo.
NGƯỜI KHỎA THÂN CỦA CRANACHI
Lucas Cranach (1472-1553) nhỏ hơn Dürer một tuổi, cũng là người quyết đoán như Direr, nhưng tinh thần không tập trung bằng. Ngay hồi mới vào nghề, ông đã có những bản sao tranh khắc gỗ của Dürer, nên đã ảnh hưởng vào tranh của mình sâu đậm, đặc biệt ở đường nét minh bạch và dùng màu sắc rực rỡ. Tài nghệ Cranach như thể đúc kết “hai trong một”, và không ngừng giao động giữa hai cá tính anh em. Các họa phẩm khỏa thân đầy sức cám dỗ của ông đã được giới quí tộc hoan hỉ đón nhận. Các nhân vật của ông thường không có thực, nhưng có nét thanh tú, không câu nệ và còn lập dị nữa. Bản năng tính dục của họ được chắt lọc nhưng cũng đượm vẻ gai lạ nh. Nó khiến ta nghĩ rằng Cranach không thực bận lòng vì phụ nữ, mà còn sợ họ phần nào chăng?

Trong họa phẩm “Nữ thần mùa xuân”, tả nữ thần treo ngành cùng tên, nhưng dưới chân nàng có đôi gà gô (loại chim của thần Vệ Nữ) đã ngầm ám thị, nàng chỉ săn tìm người trần. Ngang hông che một tấm the trong suốt, lôi kéo mắt trần, ngắm vào “chỗ che” đó. Thân đeo trang sức như khiêu khích, hẳn nàng và ngủ, đầu gối lên cổ tay và đống y phục mượt mà, thân hình trong ngọc trắng ngà của nàng ườn ra đó, trong khung cảnh tự thấy mình tồn tại. Hai hàng chữ Latin trên góc trái bảo ta rằng, nàng là nữ thần của suối thiêng, nàng không phải người trần, mặc nàng khỏa thân cám dỗ. Người trần được cảnh báo, chớ làm phiền giấc điệp thần nữ. Cranach muốn mách ta rằng, bạn phải đến với tình yêu một cách tế nhị, trân trọng. Cảnh vật quanh nàng đều huyền bí, biểu tượng ý nghĩa thần bí trong hang đá tượng trưng cái hang tính dục linh thiêng của phụ nữ, xa xa là chiến trường danh lợi, thánh đường và gia đình là thực tại tính dục kỳ diệu, nó xảy ra trong thực tế cuộc đời.
HỌA PHẨM CUNG ĐÌNH

Họa phẩm của Cranach được giới quí tộc ở các cung đình thuộc Đức ưa chuộng. Xưởng vẽ to lớn của ông luôn bận rộn, chế tạo các phiên bản nổi tiếng và phổ thông, các tác phẩm tôn giáo của ông không phải lúc nào cũng được hoan nghênh, kể cả những bức chính thống giáo toàn hảo. Hãy xem bức “Đóng đinh chịu nạn và Đội trưởng cải giáo”. Trong hình tả đội trưởng đội mũ lông rộng vành, mình mặc giáp trụ xem ra chẳng ăn nhập gì dưới chân thập giá chịu nạn. Các bức kiểu này khi tuyển trạch, vẫn bị cho ra rìa dù chúng có sức mê hoặc rất mạnh.

Xem thêm: Tiểu Sử Seydou Doumbia - Hành Trình Sự Nghiệp Của Ngôi Sao Bóng Đá Ivorian
Ông vẽ rất nhiều chân dung cho cung đình, trang sức lộng lẫy với vòng cổ đánh rất công phu, mái tóc dợn sóng, và trên hết là gương mặt trẻ thơ đăm chiêu, đã khiến họa phẩm “Công chúa Saxong”, thành hình ảnh duyên dáng, sống mãi nhờ bàn tay phù phép của nghệ thuật: Công nương mới cao sang làm sao, trang phục lượt là đỏ thắm mặc ngoài áo trắng, nữ trang vàng óng, mắt nai chăm chắm, thơ bé lạ lùng. Ông mô tả ánh mắt bối rối, đan xen dưới mái tóc dợn sóng, vòng cổ óng ánh không dấu nổi ấn tượng cao sang của một Công nương.
Bình luận